This site uses cookies.
Some of these cookies are essential to the operation of the site,
while others help to improve your experience by providing insights into how the site is being used.
For more information, please see the ProZ.com privacy policy.
This person has a SecurePRO™ card. Because this person is not a ProZ.com Plus subscriber, to view his or her SecurePRO™ card you must be a ProZ.com Business member or Plus subscriber.
Affiliations
This person is not affiliated with any business or Blue Board record at ProZ.com.
Services
Translation, Subtitling
Expertise
Specializes in:
Psychology
Art, Arts & Crafts, Painting
Education / Pedagogy
Also works in:
Poetry & Literature
Medical: Health Care
Medical (general)
More
Less
Volunteer / Pro-bono work
Open to considering volunteer work for registered non-profit organizations
Vietnamese to English: The Traditional Culture of Thang Long through chronicles General field: Art/Literary
Source text - Vietnamese Văn hóa cổ truyền Thăng Long theo dã sử
Thăng Long là đất kinh kỳ, là nơi hội tụ. Thăng Long là trung tâm văn hóa của cả nước với lịch sử mấy ngàn năm, kể cả những ngày chưa được gọi Thăng Long. Đã là một trung tâm văn hóa thì tất nhiên phải bao hàm, phải chất chứa nội dung văn hóa phong phú và đa dạng. Chỉ nói riêng trong phạm vi văn học dân gian, kho tàng này đã đồ sộ vô cùng. Không một vùng đất nào trên đất nước Việt Nam ta có được bề dày và bề sâu về văn hóa dân gian như ở Thăng Long. Có thể khẳng định như vậy mà không phải ngại ngần hay dè dặt.
Thăng Long là đất rồng bay. Rồng là một con vật huyền thoại. Người chọn con vật huyền thoại này để đặt tên cho Thủ đô, không ngờ đã mặc nhiên công nhận nơi đây là xứ sở của một kho tàng huyền thoại dồi dào. Vì đất của loài vật kỳ ảo thiêng liêng, nên ta còn gặp ở Thăng Long nhiều con vật huyền thoại, mỗi vật là một đầu đề cho một truyền thuyết, một cổ tích thần kỳ. Có rồng bay để mở ra một kỷ nguyên độc lập, có rùa bơi là thần Kim Quy với hình ảnh trả gươm, để khẳng định đất nước phải bước sang giai đoạn xây dựng hòa bình. Có con ngựa là thần Bạch Mã, với vai trò kiến trúc sư chỉ rõ con đường quy hoạch Thủ đô. Còn có trâu, mà lại là trâu vàng vừa tắm nước Hồ Tây vừa tạo cho đất Thăng Long rất nhiều mặt gương diễm lệ, có hồ còn giữ được cái tên Kim Ngưu. Rồi lại có khá nhiều là rắn. Phải là rắn mới gợi ra được những huyền tích xa xưa, để ta nhớ đến con Giao Long thần kỳ được dân Việt luôn luôn gọi tên bố về hỗ trợ cháu con gặp nạn. Dấu tích của rắn được thấy khắp mọi nơi: ở Lệ Mật phía Đông, ở Dịch Vọng phía Bắc, và ở Linh Lang ngay chính giữa Kinh đô. Thăng Long quả là xứ sở của các con vật huyền thoại. Huyền thoại mà không hề xa lạ với con người.
Có vật linh thiêng. Thăng Long lại cũng có thần linh thiêng. Gọi là thần, nhưng phải hiểu đó chính là con người, những con người đã gạt bỏ cái tiểu ngã nhỏ nhen, để đạt đến mức Đại Ngã, mà ta gọi là Thánh. Đã có một chuyên đề các Thánh ở Việt Nam. Các thánh đều có sự tích để trở thành thần thoại, cổ tích hay giai thoại để làm giàu cho văn học dân gian Thăng Long. Điều tình cờ mà hợp lý, mà lại rất độc đáo, Thăng Long chính là quê hương của rất nhiều vị thánh. Có Thánh Lỏa ở Đông Anh. Có Thánh Gióng ở Sóc Sơn. Rồi có Thánh Chèm ở Từ Liêm, Thánh Láng, Thánh Đồng Đen ở ngay giữa lòng Hà Nội. Hà Nội là đất bao dung, là nơi hội tụ, cho nên các vị thánh dù ở xa xôi mấy cũng phải về đây. Về đây để được tôn vinh là thánh của cả nước chứ không chỉ là thánh ở địa phương, ở các vùng. Thánh Mẫu là các vị như bà Chúa Kho Ỷ Lan, Liễu Hạnh. Thánh chống ngoại xâm là Thánh Phạm, Thánh Trần. Thánh chuyên ngành như đức Thánh Chu. Còn có cả thánh nước ngoài nữa. Thánh Quan và Thánh Văn Xương vẫn được người dân trên đất Hà Nội sùng bái, không hề có kỳ thị về quốc tịch. Truyện thánh là cả một kho tàng. Trong văn học dân gian Việt Nam, cổ tích và truyền thuyết Thăng Long chiếm một vị trí lớn lao là như vậy.
Thăng Long là đô, nhưng cũng còn là thị. Vì là thị nên mới có tên gọi là Hà Nội ba mươi sáu phố phường. Con số 36 tượng trưng cho sự tối đa chứ số lượng phố phường Hà Nội còn nhiều hơn thế. Những phố phường đều là quê hương của các ngành nghề, của các sản vật, nhưng đồng thời là quê hương của những sự tích các vị tổ nghề, kèm theo rất nhiều bài thơ, bài văn cúng tế, bài hát tôn vinh hoặc những bài vè. Có rất nhiều bà tổ nghề ở Hà Nội, được tôn là các bà Chúa đều được đi vào văn học dân gian. Bà chúa dệt lĩnh là Phạm Thị Ngọc Đô ở Trích Sài là một đức thiên tôn.
Các bà chúa tằm (Quỳnh Hoa Công chúa ở Nghi Tàm); bà chúa dệt (Công chúa Thụ La ở Hoàn Long).v.v… đều có những bài văn chầu được dân chúng thuộc lòng.v.v… Những vị tổ khác cũng luôn luôn lưu lại tiếng tăm và hình ảnh trong lòng các thế hệ. Vũ Uy, tổ nghề dệt thao ở Triều Khúc được nhắc đến trong ca dao:
Quai thao dệt khéo vô ngần
Là nghề của Vũ sứ thần dạy cho
Tóc rối, lông vịt, mỏ cò
Bán ra ngoại quốc cũng to vốn lời.
Rồi còn có cả những cao dao và truyền thuyết nói đến nghề đúc đồng (Ngũ Xã), làm giấy (Yên Thái) và nhiều nữa. Con người Hà Nội yêu quý kỹ thuật, quan tâm đến việc chế biến sản vật. Đất Thăng Long còn dồi dào lời ca tiếng hát, cũng rất say mê với nghệ thuật biểu diễn. Hát cửa đình Lỗ Khê còn lưu lại nhiều tác phẩm dòng ca công: Chất bác học dồi dào mà phong cách dân gian thấm đượm. Lỗ Khê là một trung tâm lớn, nhưng Hà Nội còn nhiều điểm ca công khác, quy mô không bằng nhưng ảnh hưởng vẫn lớn như làng Phú Mỹ, quê hương của một người đã được tôn là Nam quốc danh ca đào thi mẫu.
Đã nhắc đến những bài ca vè, thì cũng không nên quên rằng Hà Nội đã có những khúc tráng ca rất tiêu biểu, hình như hiếm thấy ở nhiều địa phương. Không phải tìm đâu cho xa xôi, ngay đầu thế kỷ 19, sang đầu thế kỷ 20 cả nước truyền đi bài Hà thành chính khí ca ca ngợi sự hi sinh lớn lao của Hoàng Diệu: Trời cao, sông rộng, đất dày. Núi Nùng sông Nhị chốn này làm ghi.
Nét văn hóa lớn của dân tộc ta là ở đó. Và nối tiếp Chính khí ca là cả Việt Nam đã phát huy chính khí này trong sự nghiệp Cần Vương. Ngay sau đó, lại có Ngũ tử ca, khẳng định cái đẹp của Đông Kinh Nghĩa Thục: Buổi diễn thuyết người đông như hội, kỳ bình văn khách tới như mưa. Những khúc tráng ca như vậy sống mãi với tinh thần dân tộc.
Cùng với những bài ca, vè, văn chầu.v.v…chúng ta còn được gặp ở Hà Nội rất nhiều ca dao, phương ngôn ca ngợi cảnh đẹp Thăng Long, khẳng định những của ngon vật lạ, hoặc những sắc thái đa dạng của chốn kinh kỳ.
Đã có nhiều công trình xuất bản lâu nay sưu tầm được kho tàng đồ sộ này, ca dao cả nước cũng phong phú như vậy. Có một câu hỏi cũng khá hấp dẫn là: Trong hàng vạn câu ca dao Việt Nam, có thể tìm được chăng một câu nào, đoạn nào hay nhất? Hay về tình cảm, về nghệ thuật, về phong cách, nhưng lại mang dấu ấn rõ rệt của địa phương. Người dân Hà Nội xin góp ý một câu này để chờ sự thẩm định:
Phất phơ lá trúc trăng tà
Tiếng chuông Trấn Vũ canh gà Thọ Xương
Mịt mờ khói tỏa ngàn sương
Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ.
Có phải hoàn toàn là ca dao chăng? Nhưng đúng nó đã trở thành câu ca dao riêng của riêng Hà Nội: Có phần bác học mà có phần dân gian sâu lắng đậm đà. Phong cách Hà Nội chính là như thế.
Văn học bao giờ cũng phản ánh con người. Văn học dân gian cũng vậy. Con người Việt Nam qua ca dao, cổ tích luôn luôn sống động, có khi qua một nhân vật như cô Tấm, chàng Trương Chi, có khi qua một hình tượng như con bống, con cò. Văn học dân gian Hà Nội còn có nét đặc sắc là đã sản sinh ra một kho tàng giai thoại, không đâu dồi dào bằng giai thoại Thăng Long xứng đáng chiếm một mục riêng trong kho tàng giai thoại Việt Nam, và làm sáng rõ hình ảnh của nhiều người Hà Nội. Con người nơi đây nổi bật là những hiền tài, là nguyên khí quốc gia. Đó là các nhà học giả, các vị khoa bảng, các nhà trí thức trải qua các thời đại. Chuyện của họ là chuyện học hành, thi cử đối đáp ngoại giao, nghiên cứu sáng tác, chuyện nào cũng để lại những tấm gương sáng tạo và phấn đấu cho nhiều thế hệ. Có chuyện chú bé con ba tuổi giết giặc như dũng sĩ Phù Đổng, có chuyện cô gái 9 tuổi đã là nữ tướng như Trần Ngọc Hoa. Rất nhiều là những giai thoại của tập thể dũng sĩ nhưn những đoàn quân cướp giáo Chương Dương, bắt giặc Hàm Tử, đuổi địch Bồ Đề, cho đến đoàn quân rồng lửa Ngọc Hồi rồi đội quân Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh những ngày lịch sử 19-12-1946. Phụ nữ Thăng Long rất nhiều nàng như nàng Phạm Thị Trân mà khúc hát tùng chinh cứ vang vọng mãi, hoặc như nhà thơ nữ ở phường Thanh Xuân luôn luôn thắc thỏm với ba hồi triêu mộ, một vũng tang thương. Còn có một bà huyện, nhìn Thăng Long mà thấy được đá vẫn trơ gan, nước còn chau mặt. Thơ của các bà đã trở thành niềm tâm sự của nhân dân. Những trai thanh gái lịch chốn kinh kỳ đã để lại cho kho tàng lịch sử Việt Nam những bài thơ tuyệt diệu: Có mối tình phóng khoáng nguyên vẹn vẻ tinh khôi trên bến đò Chử Xá; có mối tình không kể tuổi bên Hồ Tây; rồi có cả mối tình tưởng là quý tộc, song lại rất nhân văn. Có ông vua yêu cô gái hái dâu, tựa lưng bên khóm lan không xem hội. Lại có ông vua nho học tìm đến một ngôi chùa để rước nàng tiên, tạo nên mối tình Nho Phật Lão bàng hoàng kim cổ! Còn có những mối tình kỳ lạ: Tình của một nhà thơ với một nữ thần dưới bóng trăng mờ ảo của Tây Hồ. Không phải đất của dân gian, thì không có được những con người và những mối tình như thế.
Không biết những người nghiên cứu văn học trào phúng Việt Nam, đã có ai để ý đến nụ cười Hà Nội, hình như xuất hiện đâu đó từ cái cười của Liêu Thủ Tâm rồi đến Sai Ất, Nguyễn Sĩ Cố. Sau đó thì được cộng thêm cái nghịch ngợm tai quái của Trạng Quỳnh để dẫn đến nụ cười Tú Xuất Ba Giai là riêng cho Hà Nội. Cái cười vốn là đa dạng, nhiều khi quá mức, đi vào dung tục là cái cười quá mức của nông dân. Người Hà Nội cũng tiếp nhận cái cười này, song chủ yếu là cái cười đô thị. Xã hội càng phân hóa thì càng có lắm tiếng cười. Nụ cười Hà Nội trong xã hội thực dân, thị dân hóa là biết đánh vào những đối tượng lai căng, kệch cỡm, gây nên nét mới cho cái cười Việt Nam. Đến ngày nay có xu hướng trở thành nụ cười trí tuệ, mà chất uy – mua trong Bản án chế độ thực dân Pháp và Nhật ký trong tù (của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh) đã gợi mở phần nào. Cái cười trí tuệ này chỉ mới thấy ở Hà Nội là dồi dào hơn cả.
Có tiếng cười, có ca dao hò vè giàu giai thoại cổ tích, lại dồi dào huyền thoại, luôn luôn chứa đựng sức sống nhân văn của con người các thế hệ ở chốn đô thành, văn học dân gian Hà Nội xứng đáng với tâm tình và trí tuệ Việt Nam.
GS. Vũ Ngọc Khánh
Tít do Ban biên tập Website đặt
Translation - English The Traditional Culture of Thang Long through chronicles
Thang Long is a capital land and a national centerpoint. It has been the cultural heart of Vietnam for thousands of year, since it was not yet named Thang Long. As the cultural heart, it carries an abundant and diverse treasure of spiritual values, in which the folk culture is a significant part. It could be said that no other place in Vietnam has a culture base with great thickness and depth as Thang Long does.
Thang Long is the land of flying dragons. Dragon is a legendary creature. The person who named the capital after this creature might not notice this land would soon become the home of profuse legends. There are many other legendary creatures in Thang Long apart from the dragon, each creature taking parts in some legend or magic tale. A flying dragon that gave a start to an independence era. A swimming golden turtle that got back his sword, marking the turning-point of the nation from war to peace. A white horse that directed the construction planning of the capital. A golden buffalo that bathed in Tay Lake, leaving Vietnam a lake called Kim Nguu (Kim Nguu means Golden Buffalo). A holy serpent the ancient Vietnamese called Giao Long that always came helping them every time they asked for during any disaster. The vestiges of serpents could be found anywhere: Le Mat the South, Dich Vong the North, or Linh Lang the middle of the capital. And though they are holy creatures, they are not unfamiliar with Vietnamese people.
Thang Long is also the land of many holy deities. Those deities actually were human, yet they got rid of their small self and reached the big self of the universe, so they became holy spirits that Vietnamese honoured as thanh. All Vietnamese thanhs have their own stories, which may be either mythologies, folktales or anecdotes that enriched the folk literature in Thang Long. It is an interesting coincidence that many thanhs had their birth in Thang Long. Thanh Loa in Dong Anh. Thanh Giong in Soc Son. Thanh Chem in Tu Liem. Thanh Lang and Thanh Dong Den in Ha Noi. Ha Noi is a generous land that accepts thanhs from every other place, and thanhs accepted into Ha Noi have become no longer local thanhs but national thanhs. There are different thanhs that contribute to varied fields. Thanh Mau (Mother Gods) include Lady Y Lan, Lieu Hanh and some other goddesses. Gods that fighted against the invaders are Thanh Pham, Thanh Tran. There are gods of an industry or profession like Thanh Chu. And there are even gods whose origin was foreign countries like Thanh Quan or Thanh Van Xuong, who are equitably respected by people in Ha Noi.
Thang Long is not only a capital but also a trading city with the later tagline Ha Noi thirty-six streets. The number thirty-six is just a maximum representation, since the quantity of streets and districts in Ha Noi is much larger. Each street or district is the origin of an industry, a speciality and the tale of an industry creator along with tons of poems, offering verses and praising songs. Most industry creators in Ha Noi are goddesses mentioned in the folk literature. Pham Thi Ngoc Do, the goddess of linh embroidery in Trich Sai, is refered as a holy spirits honoured by the heaven. The goddess of silkworm growing in Nghi Tam used to be a princess named Quynh Hoa. The goddess of embroidery in Hoan Long used to be a princess named Thu La. They all are honoured through van chau (praising verses) that the folks remember by heart. Vu Uy, the creator of the industry of quai thao (the strap of thao, a Vietnamese traditional hat) embroidery in Trieu Khuc, is mentioned in the following verse:
It is Vu the messenger
The teacher of quai thao embroidery
There are other verses and legends referring to bronze-casting (Ngu Xa), paper-making (Yen Thai) and many more industries. Yet the fondness for techniques and productions is not all about Hanoians. Thang Long is also famous for music and performing arts. Hat cua dinh Lo Khe (The Singing at Lo Khe Communal House) is a collection of plentiful songs with both scholar profundities and homely folk styles. Addition to Lo Khe, there are several smaller yet influential performance sites in Ha Noi such as Phu My Village, the birthplace of a singer who used to be honoured as The mother of singing arts – The famous singer of the Southern country.
It would be a mistake to forget about typical heroical melodies which were very rare in other localities. Since early twentieth century, such a praising song was spread from Ha Noi throughout the whole nation. It was Ha thanh chinh khi ca (The Song of Upright Spirits from Ha Noi City) that said about General Hoang Dieu’s sacrifice for the national independence: High sky, large river, deep earth. Nung Mount and Nhi River both remember this.
The spirit itself is another cultural characteristic of Vietnamese people. Following Chinh khi ca, the Vietnamese upheld the upright spirits during the Can Vuong (Assisting the King) revolution. After that, they had a new song Ngu tu ca (The song of five heroes) that claimed the majesty of Dong Kinh Nghia Thuc (a education campaign taken place in Vietnam in early 20th century): Speeches are fully attended, seminars are never quiet. Those heroical melodies live forever with the national spirits.
We may find in Ha Noi a large number of folk verses and local sayings in praise of the beautiful scenes, the rare and delicious food and diverse characteristics of Thang Long.
There have been piles of published collections of this huge treasure. There has been an interesting question raised: Is it possible to point out the best verse or passage among tens of thousands of Vietnamese folk poems? Most of Ha Noi’s people recommend this passage:
Bamboo leaves flutter under declining moon
Tran Vu’s bell rings while the cock crows in Tho Xuong
Smoke and mist pervaded the hazy morning
Over Tay Lake surface resounds Yen Thai pestling
Such typical folk verses of Ha Noi: something scholarly deep and something folksily sweet. That is exactly Hanoian style.
Literature manifests people. So does the folk literature. The Vietnamese manifested through folk verses and tales always appear as lively as the characters like Tam or Truong Chi, or the representations like the goby or the stock. Another special thing about Hanoian folk literature is the stock of anecdotes that highlights the images of many Hanoians. Those people were great talents and national spirits, including the scholars, the laureates and the intellectuals throughout numerous ages. Their stories are about study, examination, communication, diplomacy and composition… which has left later generations good examples on creativity and efforts. There was a three-year-old boy called Phu Dong Thien Vuong, who fighted against invaders. There was a nine-year-old girl who became a general called Tran Ngoc Hoa. There was a troop that seized the opponents’ spears at Chuong Duong, e caught the invaders at Ham Tu, expelled the enemies from Bo De. There was another troop determined to die so that the country can live on December 19, 1946. Thang Long is the land of fantastic women such as Pham Thi Tran whose songs encouraged the army in war or a poetress who was always concerned about tragic memories of the country. Their own emotions expressed through their works have become the people’s feelings. The romantic young men and women of the capital have left Vietnamese literature wonderful tales. There were a pure, liberal affair on Chu Xa beach and an ageless love beside Tay Lake. There was a king who fell for a mulberry leaf-picking girl who stood alone against the orchid tree instead of watching the festivals. There was another king who followed Confucianism yet tried to look for a fairy in a pagoda, resulting in a forever amazing love story involving Confucianism, Buddhism and Taoism. And there was an poet’s extraordinary love for a fairy in the declining moonshine at Tay Lake. If Thang Long had not been a folk land, it would never have produced such people with such love tales.
Hanoi-styled humour has generated from the laughs of Lieu Thu Tam, Sai At and Nguyen Si Co, which was added with the mischievousness of Trang Quynh then became the typical Tu Xuat Ba Giai’s humour. There are many kinds of humour, many of which such as the farmers’ jokes tend to go beyond limits and into vulgar. Hanoians also accept this kind among all other humour trends in their urban lifestyles. The more complicated their society goes, the more diverse their humour trends become. During colonialism and urbanism in Ha Noi, people had a laugh at miscellaneous objects. That laugh gradually turned into profound smile, starting with the humour in Ban an che do thuc dan Phap (Le Procès de la colonisation française – The Indictment of French Colonization) and Nhat ky trong tu (The journal of imprisonment) by Nguyen Ai Quoc – Ho Chi Minh. This witty smile is found most popular in Ha Noi.
With humour spirits, profuse folk tales and lively verses that carry the humanity and life force of generations living in the capital, Hanoian folk literature is really a gem polished by Vietnamese souls and minds.
Professor Vu Ngoc Khanh
Title by Editorial Staff of the website
Vietnamese to English: Albania Cultural Center (Trung tâm Văn hoá Albania) General field: Art/Literary Detailed field: Architecture
Source text - Vietnamese BIG architects: cultural center in Albania
'cultural center in albania' by BIG architects in tirana, albania
all images courtesy BIG architects
copenhagen-based practice BIG has won 1st prize in the international design competition for a new
27,000 m2 cultural complex in tirana, albania. developed in collaboration with martha schwartz landscape, buro happold, speirs & major, lutzenberger & lutzenberger, and global cultural asset management, the project consists of a mosque, an islamic center, and a museum of religious harmony. the winning entry was selected out of five finalists, including zaha hadid, spanish architect andrés perea ortega,
architecture studio from france and dutch seARCH.
rendered aerial view
located at the heart of the capital, which is currently undergoing a major urban renewal, the project is part of a complete reconceptualization of scanderbeg square, an important cultural site in the city's fabric.
in addition, the design takes into account albania's role as a crossroads of three major religions - orthodox christianity, catholicism, and islam - and seeks to serve not just the muslim community of the area but educate the public about islamic values.
street view
'this project is very significant for us for two reasons: firstly, it is a privilege to contribute to the ambitious rejuvenation of tirana city - especially since it is happening not by the random accumulation of singular monuments - but rather in accordance with a careful and considerate holistic master plan. secondly, and perhaps most importantly - religious tolerance is one of our greatest challenges today - politically, culturally and even urbanistically. with the construction of the new mosque of tirana, the islamic center and the museum of religious harmony, tirana will reestablish the equilibrium by adding a mosque to the newly completed orthodox and catholic cathedrals, making tirana an example for the rest of the world as a global capital of religious harmony', says bjarke ingels, founding partner of BIG.
view of public square
utilizing the two intersecting axes - the city's grid crossed with the orientation of mecca - the form of the buidlings' are sculpted on the square while incorporating tirana's street wall and eaves line.
the ground floor is rotated so that both the mosque and public plaza is facing the holy city of islam.
this arrangement opens up a series of plazas - two minor ones on the sides of the mosque and a major plaza with a minaret in front - which spatially extends the place of worship into the city. by turning the mosque inside out and bringing the program and qualities of is to a public arena, the religion becomes inclusive and inviting - a part of tirana's urban energy.
outdoor prayer area
the layout of the courtyards and public space can accommodate up to10,000 people performing their prayers.
the facade of the buildings feature a multitude of rectangular windows which reference islamic mashrabiya screens, and provide shading and privacy while maintaining a level of transparency. the light qualities of the mosque will change throughout the day as the light washes over the curved surfaces.
interior view of mosque
atrium
library
night view
(upper left) site
(upper right) tirana grid
(bottom left) mecca grid
(bottom right) mosque
Plaza
Ablution
Minaret
project info:
client: municipality of tirana, albanian muslim community
collaborators: martha schwartz landscape, buro happold, speirs & major, lutzenberger & lutzenberger, and global cultural asset management
size: 27,000 m2
partner-in-charge: bjarke ingels, thomas chrstoffersen
project leader: leon rost
project team: marcella martinez, se yoon park, alessandro ronfini, daniel kidd, julian nin liang, erick kristanto, ho kyung lee
Translation - English Trung tâm văn hoá Albania
Trung tâm văn hoá Albania do BIG Architects thực hiện ở Tirana, Albania
Tất cả hình ảnh do BIG Architects cung cấp
Hãng kiến trúc Copenhagen BIG vừa giành giải nhất tại cuộc thi thiết kế quốc tế với đề tài là một trung tâm liên hợp văn hoá rộng 27000 m2 mới ở Tirana, Albania. Dự án được thực hiện với sự cộng tác của Martha Schwartz Landscape, Buro Happold, Speirs & Major, Lutzenberger & Lutzenberger, và Global Cultural Asset Management. Dự án bao gồm một nhà thờ Hồi giáo, một trung tâm Hồi giáo, và một bảo tàng về hoà hợp tôn giáo. Tác phẩm đạt giải được chọn ra từ năm ứng cử viên chung khảo, bao gồm Zaha Hadid, kiến trúc sư Tây Ban Nha Andrés Perea Ortega, Architecture Studio (Pháp) và seARCH (Hà Lan).
Bản vẽ cảnh quan nhìn từ trên không
Toạ lạc tại trung tâm thủ đô, nơi đang diễn ra tiến trình tân trang đô thị mạnh mẽ, công trình là một phần của mô hình Quảng trường Scanderbeg mới tái tạo hoàn chỉnh, một danh lam văn hoá quan trọng của thành phố.
Bên cạnh đó, dự án cũng xét đến vị trí của Albania như một giao lộ của ba tôn giáo lớn – Chính thống giáo (Orthodox Christianity), Công giáo (Catholicism) và Hồi giáo – và hướng đến phục vụ không chỉ cộng đồng Hồi giáo trong khu vực mà còn giáo dục quần chúng về những giá trị của đạo Hồi.
Nhìn từ đường phố
Theo Bjarke Ingels, một trong các nhà sáng lập của BIG, “Dự án này rất có ý nghĩa đối với chúng tôi, vì hai lý do: thứ nhất, được góp tay vào khát vọng trẻ hoá thành phố Tirana thực sự là một đặc ân – nhất là khi đó không phải một quy trình chắp vá ngẫu hứng các công trình riêng lẻ lại với nhau, mà là một chiến lược quy hoạch tổng thể đầy cân nhắc thận trọng. Thứ hai, và có lẽ là quan trọng hơn cả, lòng khoan dung tôn giáo là một trong những thử thách ghê gớm nhất của thế giới chúng ta ngày nay – xét về khía cạnh chính trị, văn hoá và cả đô thị nữa. Với sự ra đời của nhà thờ Tirana, trung tâm Hồi giáo và bảo tàng Hoà Hợp Tôn Giáo, Tirana sẽ tái thiết lập thế cân bằng. Việc đặt một nhà thờ Hồi giáo bên cạnh các giáo đường Chính thống giáo và Công giáo mới hoàn thành sẽ biến Tirana thành một hình mẫu thủ đô tôn giáo hoà hợp toàn cầu”.
Quảng trường công cộng
Tận dụng hai đường trục cắt nhau – chu vi của thành phố với hướng nhìn của thánh địa Mecca – các kiến trúc sư đã kiến tạo nên kết cấu của các toà nhà trên quảng trường kết hợp các mảng tường và mái hiên trên đường phố Tirana.
Cả đền thờ và quảng trường đều được xoay hướng mặt về vùng thánh địa Hồi giáo.
Cách bố trí này mở ra một chuỗi quảng trường – hai quảng trường nhỏ nằm hai bên đền thờ và một quảng trường lớn với một ngọn tháp đứng đằng trước. Ngọn tháp này phát triển khu vực cầu nguyện vào không gian phố phường. Không gian nhà thờ vì thế được đưa từ trong ra ngoài, những hoạt động và không khí tôn giáo đã trở thành một phần của không gian công cộng, và bản thân tôn giáo cũng trở nên gần gũi và lôi cuốn hơn – nó đã trở thành một phần nhiệt huyết đô thị của Tirana.
Khu vực cầu nguyện ngoài trời
Các sân trong và không gian chung vừa đủ diện tích cho 10000 người tham gia nghi thức cầu nguyện.
Các mặt toà nhà mang vô số ô cửa sổ vuông gợi nhớ đến những cánh cửa Mashrabiya truyền thống Hồi giáo. Các cửa sổ này có thể che nắng và bảo vệ không khí riêng tư bên trong đồng thời vẫn duy trì độ trong suốt cần thiết cho việc tiếp nhận ánh sáng. Chất lượng ánh sáng trong đền thờ sẽ thay đổi theo thời gian trong ngày khi ánh nắng hắt lên các bề mặt cong.
Nội thất đền thờ
Tiền sảnh
Thư viện
Cảnh đêm
(trên, trái) khu vực
(trên, phải) chu vi Tirana
(dưới, trái) chu vi Mecca
(dưới, phải) đền thờ
Quảng trường
Nơi tẩy trần
Ngọn tháp
Thông tin dự án
Khách hàng: thành phố tự trị Tirana, cộng đồng Hồi giáo Albani
Cộng tác viên: Martha Schwartz Landscape, Buro Happold, Speirs & Major, Lutzenberger & Lutzenberger, và Global Cultural Asset Management.
Diện tích: 27000 m2
Đối tác quản lý: Bjarke Ingels, Thomas Christoffersen
Trưởng dự án: Leon Rost
Nhóm thực hiện dự án: Marcella Martinez, Se Yoon Park, Alessandro Ronfini, Daniel Kidd, Julian Nin Liang, Erick Kristanto, Ho Kyung Lee
Vietnamese to English: The virgin and the gypsy - D.H.Lawrence (Chapter 6) General field: Art/Literary Detailed field: Poetry & Literature
Source text - Vietnamese The next week it poured again with rain. And this irritated Yvette with strange anger. She had intended it should be fine. Especially she insisted it should be fine towards the weekend. Why, she did not ask herself.
Thursday, the half-holiday, came with a hard frost, and sun. Leo arrived with his car, the usual bunch. Yvette disagreeably and unaccountably refused to go.
“No thanks, I don’t feel like it,” she said.
She rather enjoyed being Mary-Mary-quite-contrary.
Then she went for a walk by herself, up the frozen hills, to the Black Rocks.
The next day also came sunny and frosty. It was February, but in the north country the ground did not thaw in the sun. Yvette announced that she was going for a ride on her bicycle, and taking her lunch, as she might not be back till afternoon.
She set off, not hurrying. In spite of the frost, the sun had a touch of spring. In the park, the deer were standing in the distance, in the sunlight, to be warm. One doe, white spotted, walked slowly across the motionless landscape.
Cycling, Yvette found it difficult to keep her hands warm, even when bodily she was quite hot. Only when she had to walk up the long hill, to the top, and there was no wind.
The upland was very bare and clear, like another world. She had climbed on to another level. She cycled slowly, a little afraid of taking the wrong lane, in the vast maze of stone fences. As she passed along the lane she thought was the right one, she heard a faint tapping noise, with a slight metallic resonance.
The gipsy man was seated on the ground with his back to the cart-shaft, hammering a copper bowl. He was in the sun, bare-headed, but wearing his green jersey. Three small children were moving quietly round, playing in the horse’s shelter: the horse and cart were gone. An old woman, bent, with a kerchief round her head, was cooking over a fire of sticks. The only sound was the rapid, ringing tap-tap-tap of the small hammer on the dull copper.
The man looked up at once, as Yvette stepped from her bicycle, but he did not move, though he ceased hammering. A delicate, barely discernible smile of triumph was on his face. The old woman looked round, keenly, from under her dirty grey hair. The man spoke a half-audible word to her, and she turned again to her fire. He looked up at Yvette.
“How are you all getting on?” she asked politely.
“All right, eh! You sit down a minute?” He turned as he sat, and pulled a stool from under the caravan for Yvette. Then, as she wheeled her bicycle to the side of the quarry, he started hammering again, with that bird-like, rapid light stroke.
Yvette went to the fire to warm her hands.
“Is this the dinner cooking?” she asked childishly, of the old gipsy, as she spread her long, tender hands, mottled red with the cold, to the embers.
“Dinner, yes!” said the old woman. “For him! And for the children.”
She pointed with the long fork at the three black-eyed, staring children, who were staring at her from under their black fringes. But they were clean. Only the old woman was not clean. The quarry itself they had kept perfectly clean.
Yvette crouched in silence, warming her hands. The man rapidly hammered away with intervals of silence. The old hag slowly climbed the steps to the third, oldest caravan. The children began to play again, like little wild animals, quiet and busy.
“Are they your children?” asked Yvette, rising from the fire and turning to the man.
He looked her in the eyes, and nodded.
“But where’s your wife?”
“She’s gone out with the basket. They’re all gone out, cart and all, selling things. I don’t go selling things. I make them, but I don’t go selling them. Not often. I don’t often.”
“You make all the copper and brass things?” she said.
He nodded, and again offered her the stool. She sat down.
“You said you’d be here on Fridays,” she said. “So I came this way, as it was so fine.”
“Very fine day!” said the gipsy, looking at her cheek, that was still a bit blanched by the cold, and the soft hair over her reddened ear, and the long, still mottled hands on her knee.
“You get cold, riding a bicycle?” he asked.
“My hands!” she said, clasping them nervously.
“You didn’t wear gloves?”
“I did, but they weren’t much good.”
“Cold comes through,” he said.
“Yes!” she replied.
The old woman came slowly, grotesquely down the steps of the caravan, with some enamel plates.
“The dinner cooked, eh?” he called softly.
The old woman muttered something, as she spread the plates near the fire. Two pots hung from a long iron horizontal-bar, over the embers of the fire. A little pan seethed on a small iron tripod. In the sunshine, heat and vapour wavered together.
He put down his tools and the pot, and rose from the ground.
“You eat something along of us?” he asked Yvette, not looking at her.
“Oh, I brought my lunch,” said Yvette.
“You eat some stew?” he said. And again he called quietly, secretly to the old woman, who muttered in answer, as she slid the iron pot towards the end of the bar.
“Some beans, and some mutton in it,” he said.
“Oh thanks awfully!” said Yvette. Then suddenly taking courage, added: “Well yes, just a very little, if I may.”
She went across to untie her lunch from her bicycle, and he went up the steps to his own caravan. After a minute, he emerged, wiping his hands on a towel.
“You want to come up and wash your hands?” he said.
“No, I think not,” she said. “They are clean.”
He threw away his wash-water, and set off down the road with a high brass jug, to fetch clean water from the spring that trickled into a small pool, taking a cup to dip it with.
When he returned, he set the jug and the cup by the fire, and fetched himself a short log, to sit on. The children sat on the floor, by the fire, in a cluster, eating beans and bits of meat with spoon or fingers. The man on the log ate in silence, absorbedly. The woman made coffee in the black pot on the tripod, hobbling upstairs for the cups. There was silence in the camp. Yvette sat on her stool, having taken off her hat and shaken her hair in the sun.
“How many children have you?” Yvette asked suddenly.
“Say five,” he replied slowly, as he looked up into her eyes.
And again the bird of her heart sank down and seemed to die. Vaguely, as in a dream, she received from him the cup of coffee. She was aware only of his silent figure, sitting like a shadow there on the log, with an enamel cup in his hand, drinking his coffee in silence. Her will had departed from her limbs, he had power over her: his shadow was on her.
And he, as he blew his hot coffee, was aware of one thing only, the mysterious fruit of her virginity, her perfect tenderness in the body.
At length he put down his coffee-cup by the fire, then looked round at her. Her hair fell across her face, as she tried to sip from the hot cup. On her face was that tender look of sleep, which a nodding flower has when it is full out, like a mysterious early flower, she was full out, like a snowdrop which spreads its three white wings in a flight into the waking sleep of its brief blossoming. The waking sleep of her full-opened virginity, entranced like a snowdrop in the sunshine, was upon her.
The gipsy, supremely aware of her, waited for her like the substance of shadow, as shadow waits and is there.
At length his voice said, without breaking the spell:
“You want to go in my caravan, now, and wash your hands?”
The childlike, sleep-waking eyes of her moment of perfect virginity looked into his, unseeing. She was only aware of the dark, strange effluence of him bathing her limbs, washing her at last purely will-less. She was aware of HIM, as a dark, complete power.
“I think I might,” she said.
He rose silently, then turned to speak, in a low command, to the old woman. And then again he looked at Yvette, and putting his power over her, so that she had no burden of herself, or of action.
“Come!” he said.
She followed simply, followed the silent, secret, overpowering motion of his body in front of her. It cost her nothing. She was gone in his will.
He was at the top of the steps, and she at the foot, when she became aware of an intruding sound. She stood still, at the foot of the steps. A motor-car was coming. He stood at the top of the steps, looking round strangely. The old woman harshly called something, as with rapidly increasing sound, a car rushed near. It was passing.
Then they heard the cry of a woman’s voice, and the brakes on the car. It had pulled up, just beyond the quarry.
The gipsy came down the steps, having closed the door of the caravan.
“You want to put your hat on,” he said to her.
Obediently she went to the stool by the fire, and took up her hat. He sat down by the cart-wheel, darkly, and took up his tools. The rapid tap-tap-tap of his hammer, rapid and angry now like the sound of a tiny machine-gun, broke out just as the voice of the woman was heard crying:
“May we warm our hands at the camp fire?”
She advanced, dressed in a sleek but bulky coat of sable fur. A man followed, in a blue great-coat; pulling off his fur gloves and pulling out a pipe.
“It looked so tempting,” said the woman in the coat of many dead little animals, smiling a broad, half-condescending, half-hesitant simper, around the company.
No one said a word.
She advanced to the fire, shuddering a little inside her coat, with the cold. They had been driving in an open car.
She was a very small woman, with a rather large nose: probably a Jewess. Tiny almost as a child, in that sable coat she looked much more bulky than she should, and her wide, rather resentful brown eyes of a spoilt Jewess gazed oddly out of her expensive get-up.
She crouched over the low fire, spreading her little hands, on which diamonds and emeralds glittered.
“Ugh!” she shuddered. “Of course we ought not to have come in an open car! But my husband won’t even let me say I’m cold!” She looked round at him with her large, childish, reproachful eyes, that had still the canny shrewdness of a bourgeois Jewess: a rich one, probably.
Apparently she was in love, in a Jewess’s curious way, with the big, blond man. He looked back at her with his abstracted blue eyes, that seemed to have no lashes, and a small smile creased his smooth, curiously naked cheeks. The smile didn’t mean anything at all.
He was a man one connects instantly with winter sports, skiing and skating. Athletic, unconnected with life, he slowly filled his pipe, pressing in the tobacco with long, powerful reddened finger.
The Jewess looked at him to see if she got any response from him. Nothing at all, but that odd, blank smile. She turned again to the fire, tilting her eyebrows and looking at her small, white, spread hands.
He slipped off his heavily lined coat, and appeared in one of the handsome, sharp-patterned knitted jerseys, in yellow and grey and black, over well-cut trousers, rather wide. Yes, they were both expensive! And he had a magnificent figure, an athletic, prominent chest. Like an experienced camper, he began building the fire together, quietly: like a soldier on campaign.
“D’you think they’d mind if we put some fir-cones on, to make a blaze?” he asked of Yvette, with a silent glance at the hammering gipsy.
“Love it, I should think,” said Yvette, in a daze, as the spell of the gipsy slowly left her, feeling stranded and blank.
The man went to the car, and returned with a little sack of cones, from which he drew a handful.
“Mind if we make a blaze?” he called to the gipsy.
“Eh?”
“Mind if we make a blaze with a few cones?”
“You go ahead!” said the gipsy.
The man began placing the cones lightly, carefully on the red embers. And soon, one by one, they caught fire, and burned like roses of flame, with a sweet scent.
“Ah lovely! lovely!” cried the little Jewess, looking up at her man again. He looked down at her quite kindly, like the sun on ice. “Don’t you love fire! Oh, I love it!” the little Jewess cried to Yvette, across the hammering.
The hammering annoyed her. She looked round with a slight frown on her fine little brows, as if she would bid the man stop. Yvette looked round too. The gipsy was bent over his copper bowl, legs apart, head down, lithe arm lifted. Already he seemed so far from her.
The man who accompanied the little Jewess strolled over to the gipsy, and stood in silence looking down on him, holding his pipe to his mouth. Now they were two men, like two strange male dogs, having to sniff one another.
“We’re on our honeymoon,” said the little Jewess, with an arch, resentful look at Yvette. She spoke in a rather high, defiant voice, like some bird, a jay, or a crook, calling.
“Are you really?” said Yvette.
“Yes! Before we’re married! Have you heard of Simon Fawcett?”— she named a wealthy and well-known engineer of the north country. “Well, I’m Mrs. Fawcett, and he’s just divorcing me!” She looked at Yvette with curious defiance and wistfulness.
“Are you really!” said Yvette.
She understood now the look of resentment and defiance in the little Jewess’ big, childlike brown eyes. She was an honest little thing, but perhaps her honesty was TOO rational. Perhaps it partly explained the notorious unscrupulousness of the well-known Simon Fawcett.
“Yes! As soon as we get the divorce, I’m going to marry Major Eastwood.”
Her cards were now all on the table. She was not going to deceive anybody.
Behind her, the two men were talking briefly. She glanced round, and fixed the gipsy with her big brown eyes.
He was looking up, as if shyly, at the big fellow in the sparkling jersey, who was standing pipe in mouth, man to man, looking down.
“With the horses back of Arras,” said the gipsy, in a low voice.
They were talking war. The gipsy had served with the artillery teams, in the Major’s own regiment.
“Ein schöner Mensch!” said the Jewess. “A handsome man, eh?”
For her, too, the gipsy was one of the common men, the Tommies.
“Quite handsome!” said Yvette.
“You are cycling?” asked the Jewess in a tone of surprise.
“Yes! Down to Papplewick. My father is rector of Papplewick: Mr. Saywell!”
“Oh!” said the Jewess. “I know! A clever writer! Very clever! I have read him.”
The fir-cones were all consumed already, the fire was a tall pile now of crumbling, shattering fire-roses. The sky was clouding over for afternoon. Perhaps towards evening it would snow.
The Major came back, and slung himself into his coat.
“I thought I remembered his face,” he said. “One of our grooms, A.1. man with horses.”
“Look!” cried the Jewess to Yvette. “Why don’t you let us motor you down to Normanton. We live in Scoresby. We can tie the bicycle on behind.”
“I think I will, “said Yvette.
“Come!” called the Jewess to the peeping children, as the blond man wheeled away the bicycle. “Come! Come here!” and taking out her little purse, she held out a shilling.
“Come!” she cried. “Come and take it!”
The gipsy had laid down his work, and gone into his caravan. The old woman called hoarsely to the children, from the enclosure. The two elder children came stealing forward. The Jewess gave them the two bits of silver, a shilling and a florin, which she had in her purse, and again the hoarse voice of the unseen old woman was heard.
The gipsy descended from his caravan and strolled to the fire. The Jewess searched his face with the peculiar bourgeois boldness of her race.
“You were in the war, in Major Eastwood’s regiment!” she said.
“Yes, lady!”
“Imagine you both being here now!— It’s going to snow —” she looked up at the sky.
“Later on,” said the man, looking at the sky.
He too had gone inaccessible. His race was very old, in its peculiar battle with established society, and had no conception of winning. Only now and then it could score.
But since the war, even the old sporting chance of scoring now and then, was pretty well quenched. There was no question of yielding. The gipsy’s eyes still had their bold look: but it was hardened and directed far away, the touch of insolent intimacy was gone. He had been through the war.
He looked at Yvette.
“You’re going back in the motor-car?” he said.
“Yes!” she replied, with a rather mincing mannerism. “The weather is so treacherous!”
“Treacherous weather!” he repeated, looking at the sky.
She could not tell in the least what his feelings were. In truth, she wasn’t very much interested. She was rather fascinated, now, by the little Jewess, mother of two children, who was taking her wealth away from the well-known engineer and transferring it to the penniless, sporting young Major Eastwood, who must be five or six years younger than she. Rather intriguing!
The blond man returned.
“A cigarette, Charles!” cried the little Jewess, plaintively.
He took out his case, slowly, with his slow, athletic movement. Something sensitive in him made him slow, cautious, as if he had hurt himself against people. He gave a cigarette to his wife, then one to Yvette, then offered the case, quite simply, to the gipsy. The gipsy took one.
“Thank you sir!”
And he went quietly to the fire, and stooping, lit it at the red embers. Both women watched him.
“Well goodbye!” said the Jewess, with her odd bourgeois free-masonry. “Thank you for the warm fire.”
“Fire is everybody’s,” said the gipsy.
The young child came toddling to him.
“Goodbye!” said Yvette. “I hope it won’t snow for you.”
“We don’t mind a bit of snow,” said the gipsy.
“Don’t you?” said Yvette. “I should have thought you would!”
“No!” said the gipsy.
She flung her scarf royally over her shoulder, and followed the fur coat of the Jewess, which seemed to walk on little legs of its own.
Translation - English TUẦN LỄ KẾ TIẾP, trời lại đổ mưa. Cơn mưa dấy lên trong Yvette một nỗi tức giận lạ kỳ. Như nàng trù tính thì trời phải quang đãng, nhất thiết quang đãng đến tận cuối tuần. Vì lẽ gì, nàng không tự vấn.
Thứ Năm được nghỉ nửa ngày, trời thoạt đầu sương giá, rồi nắng lên. Leo lái xe hơi đến, cũng với đám bạn ấy. Sưng sỉa một cách khó hiểu, Yvette từ chối đi cùng.
“Cám ơn, tôi không có hứng.” nàng nói.
Nàng thích làm Mary-Mary-ngược-ngạo-quá-chừng hơn.
Thế rồi một mình, nàng đi dạo lên những ngọn đồi sương giá, đến dãy Đá Đen.
Ngày tiếp theo, trời cũng nắng và đẫm sương. Bấy giờ là tháng Hai, nhưng ở miền quê phương bắc băng giá không hề tan chảy dưới ánh mặt trời. Yvette tuyên bố đạp xe đi chơi và mang phần ăn trưa theo vì có thể đến chiều nàng mới về nhà.
Nàng khởi hành không vội vã. Dù trời sương giá, trong ánh nắng đã phảng phất hơi hướm mùa xuân. Xa xa trong công viên, lũ nai đang đứng hơ mình giữa nắng. Một con nai cái đốm trắng chậm rãi bước ngang khung cảnh im lìm.
Trong lúc đạp xe, Yvette nhận thấy đôi bàn tay mình không sao ấm lên được, dù toàn thân nàng nóng rực. Mãi cho đến khi nàng buộc phải cuốc bộ một quãng đường dài lên đỉnh đồi, nơi gió trời đã lặng.
Cảnh vật trên cao quang đãng và trơ trọi tựa hồ một thế giới khác. Yvette đã trèo lên tới một tầm cao mới. Nàng tiếp tục đạp xe chầm chậm giữa mê trận bạt ngàn cột đá, hơi rùng mình với viễn cảnh lạc lối. Đương lúc tin rằng mình đang đi đúng lối, nàng chợt nghe thấy một thanh âm va đập mơ hồ, cùng tiếng vang khe khẽ của kim loại.
Chàng du mục đang ngồi bệt dưới đất, lưng xoay về phía càng xe, tay cầm búa nện lên một chiếc bát bằng đồng. Đầu trần dưới nắng, chàng mặc một chiếc áo len xanh. Ba đứa trẻ lặng lẽ chạy nhảy quanh chàng, vui đùa trong chòi ngựa. Không thấy bóng dáng con ngựa và chiếc xe kéo đâu. Một người đàn bà lớn tuổi, đầu quấn khăn vuông, lui cui nấu nướng gì đó trên đống củi lửa. Không gian hoàn toàn tĩnh lặng, trừ tiếng keng-keng gấp gấp ngân vang của chiếc búa con trên mặt đồng xỉn.
Yvette vừa xuống xe, chàng du mục ngẩng lên tức khắc. Chàng không cử động, nhưng tay búa đã ngừng. Một nét cười hân hoan, kín đáo đến mức hầu như không thấy được, hiện lên trên gương mặt chàng. Người đàn bà lớn tuổi phóng một cái nhìn sắc sảo qua làn tóc hoa râm nhớp nháp. Chàng du mục thì thầm gì đó với bà ta, và bà quay lại với đống lửa. Chàng ngước nhìn Yvette.
“Mọi người có khoẻ không?” Nàng lịch sự hỏi.
“Ổn cả! Cô ngồi chơi một tí chứ?” Chàng xoay người lại, rút từ dưới đáy caravan một chiếc ghế thấp cho Yvette. Rồi trong khi nàng dắt xe đạp về phía rìa mỏ đá, chàng tiếp tục tay búa, và những tiếng nện khe khẽ, gấp gáp như chim gõ mỏ lại vang lên.
Yvette đến hơ tay bên đống lửa.
“Đây là bữa ăn phải không?” Nàng vô tư hỏi bà du mục lớn tuổi trong khi vươn thẳng đôi bàn tay dài, mong manh, ửng đỏ vì lạnh của mình ra trước đám than hồng.
“Vâng, bữa ăn!” Bà du mục đáp. “Cho cậu ta. Và bọn trẻ.”
Bà trỏ chiếc nĩa dài vào ba đứa nhỏ đang giương cặp mắt đen láy dưới mớ tóc phủ trán đen tuyền lên nhìn nàng. Ba đứa đều sạch sẽ. Toàn bộ khu mỏ cũng được giữ gìn sạch sẽ như thế, chỉ có bà du mục thì không.
Yvette lặng lẽ ngồi thu mình, hơ ấm bàn tay. Chàng du mục nện búa liên hồi phá tan những khoảng lặng. Bà già chậm chạp trèo lên bậc cấp của chiếc caravan cũ kỹ nhất. Bọn trẻ bắt đầu đùa nghịch trở lại như những con thú nhỏ, tất bật mà im ru.
“Chúng là con anh phải không?” Yvette rời ngọn lửa, đến bên chàng du mục.
Chàng nhìn vào mắt nàng và gật đầu.
“Còn vợ anh đâu?’
“Cô ấy mang giỏ ra ngoài, cũng như tất cả mọi người, đánh xe ra ngoài để bán hàng. Tôi không đi bán. Tôi chế ra chúng, nhưng không đi bán chúng. Ít khi đi.”
“Anh chế ra tất cả những vật dụng bằng đồng đó?” Nàng hỏi.
Chàng gật đầu, và lại đưa cho nàng chiếc ghế. Nàng ngồi xuống.
“Anh bảo anh có mặt ở đây vào mỗi thứ Sáu.” Nàng nói. “Vậy nên tranh thủ lúc đẹp trời, tôi đến.”
“Đúng là một ngày rất đẹp! ” Chàng đáp và ngắm nhìn đôi má nàng đã hơi tái đi vì rét, mái tóc mềm phủ trên hai vành tai ửng đỏ, và đôi bàn tay dài lấm tấm máu tụ nằm bất động trên đầu gối nàng.
“Cô bị lạnh khi đạp xe đến đây?” Chàng hỏi.
“Lạnh bàn tay!” Nàng bồn chồn siết hai bàn tay vào nhau.
“Cô không mang găng sao?”
“Có chứ, nhưng chúng chả giữ ấm được mấy.”
“Hơi lạnh thấm vào bên trong.”
“Vâng!” Nàng đáp.
Bà du mục từ từ xuất hiện, khệ nệ bước xuống từng bậc cấp caravan với vài chiếc đĩa tráng men.
“Bữa ăn sẵn sàng rồi sao?” Chàng nhẹ nhàng cất tiếng.
Vừa lầm bầm gì đó, bà già vừa bày biện mớ đĩa ra quanh bếp lửa. Hai chiếc nồi mắc vào thanh ngang dài bằng sắt bắc trên đống than hồng. Một chiếc chảo sôi sùng sục trên chiếc kiềng sắt ba chân. Hơi nóng và hơi nước chập chờn hoà quyện giữa nắng trời.
Chàng du mục đặt mớ dụng cụ cùng chiếc nồi xuống, và nhổm người dậy.
“Cô ăn với chúng tôi chứ?” Chàng hỏi Yvette mà không nhìn nàng.
“Ồ, tôi có mang thức ăn theo rồi.” Yvette đáp.
“Cô dùng chút món hầm chứ?” Chàng mời. Rồi chàng lại khẽ gọi bà du mục, kín đáo nói gì đó với bà, và bà vừa lầm bầm đáp lại vừa đẩy chiếc nồi sắt về cuối giá treo.
“Có chút đậu và thịt cừu trong ấy.” chàng bảo.
“Ôi, cám ơn lắm lắm!” Yvette đáp. Rồi nàng bất giác thu hết can đảm nói thêm: “Vâng, nếu được tôi chỉ xin một ít thôi.”
Nàng tháo phần ăn trưa của mình ra khỏi xe đạp, còn chàng leo lên các bậc cấp vào trong caravan. Một phút sau chàng ló mặt ra, lau tay bằng một chiếc khăn.
“Cô muốn lên rửa tay không?” Chàng nói.
“Không, tay tôi sạch rồi.”
Chàng đổ chậu nước rửa tay, cầm một chiếc lọ cao bằng đồng cùng một chiếc cốc đong đi về phía cuối con đường, để lấy nước từ dòng suối chảy vào một chiếc hồ nhỏ.
Khi quay lại, chàng đặt chiếc lọ và chiếc cốc bên đống lửa, rồi nhặt một khúc gỗ ngắn và ngồi lên. Đám trẻ ngồi túm tụm trên sàn nhà gần đống lửa, đứa xúc đứa bốc từng mẩu thịt miếng đậu. Chàng du mục ngồi trên khúc gỗ miệt mài ăn lặng lẽ. Bà già pha cà phê vào chiếc ấm đen đặt trên kiềng, rồi tập tễnh trèo lên caravan lấy tách. Cả trại chìm trong yên tĩnh. Yvette vẫn ngồi trên ghế. Nàng giở nón ra và lúc lắc mái đầu dưới nắng.
“Anh có bao nhiêu con?” Yvette bất thần hỏi.
“Năm.” chàng chầm chậm đáp và ngước nhìn vào mắt nàng.
Một lần nữa Yvette nghe con tim mình chìm xuống, tựa hồ lên cơn hấp hối. Bần thần như thể đang mơ, nàng đón lấy tách cà phê trên tay chàng. Nàng chẳng còn nhận ra điều gì ngoài dáng hình lặng lẽ như một cái bóng của chàng trên khúc gỗ, với chiếc tách men trong tay, nhấm nháp từng ngụm cà phê trong yên lặng. Ý chí đã rời bỏ thể xác nàng, sức mạnh nơi chàng áp đảo nàng, bóng chàng đổ xuống trên nàng.
Và chàng, trong lúc thổi nguội cà phê, chẳng còn nhận ra điều gì ngoài hạt mầm trinh nguyên bí ẩn trong nàng, vẻ mong manh hoàn mỹ nơi tấm thân mảnh dẻ ấy.
Cuối cùng chàng đặt tách cà phê xuống bên đống lửa, ngoảnh lại nhìn nàng. Làn tóc đổ xuống gương mặt nàng khi nàng cố nhấp môi vào tách cà phê nóng. Gương mặt nàng toát lên vẻ mơ màng yểu điệu của một đoá hoa rủ đã nở hết. Nàng căng tràn nhựa sống, như một đoá hoa nở sớm huyền diệu, một bông tuyết điểm xoè cánh trắng bay vào thời khắc bừng tỉnh của tuổi xuân chóng tàn. Thời khắc thức tỉnh của trinh trắng mãn khai, đẹp mê ly như một bông tuyết điểm dưới nắng, đang đến với nàng.
Chàng du mục, hoàn toàn ý thức về nàng, chờ đợi nàng như thể một chiếc bóng thực sự, một chiếc bóng luôn ở đó và chờ đợi.
Cuối cùng chàng cất tiếng, mà không phá vỡ bùa chú:
“Cô có muốn vào caravan rửa tay không?”
Ánh mắt bừng tỉnh, thơ ngây của nàng trong khoảnh khắc trinh nguyên mỹ mãn hướng về chàng như nhìn vào hư không. Nàng chỉ nhận ra tay chân mình ngụp trong dòng nước thẫm lạ lùng là chàng, và chút ý chí còn lại của mình cuối cùng cũng bị gội tan. Trong ý thức của nàng, chàng chính là thứ mãnh lực u huyền toàn vẹn ấy.
“Vâng, có lẽ.” nàng đáp.
Chàng lẳng lặng đứng dậy, quay sang hạ giọng trao đổi với bà du mục. Rồi chàng lại nhìn Yvette, buông mãnh lực của mình lên nàng, khiến nàng chẳng còn bận tâm đến bản thân hay hành động nữa.
“Lại đây!” chàng nói.
Nàng mặc nhiên tuân theo, đi theo từng chuyển động lặng lẽ, bí hiểm, áp đảo của thân hình chàng trước mắt. Chẳng đáng gì. Nàng đã tan theo ý chí của chàng.
Chàng đang đứng trên bậc cấp trên cùng, còn nàng ở bậc cấp cuối cùng, thì nàng chợt nghe thấy một âm thanh không mời mà đến. Nàng đứng sững lại nơi bậc cấp. Một chiếc xe hơi đang tiến tới. Chàng đứng yên ở bậc cấp trên cùng, ngạc nhiên nhìn quanh. Người đàn bà lớn tuổi the thé kêu lên câu gì đó, khi chiếc xe phóng lại gần cùng tiếng động cơ vun vút lớn dần. Nó đang chạy ngang qua.
Rồi họ nghe tiếng kêu của một phụ nữ, và tiếng xe thắng két. Nó đã dừng bánh ngay phía trên khu mỏ.
Chàng du mục khép cửa caravan lại và bước xuống bậc cấp.
“Cô muốn đội mũ vào chứ.” Chàng nói với nàng.
Nàng ngoan ngoãn đi tới chiếc ghế thấp bên đống lửa và nhấc mũ lên. Chàng trầm lặng ngồi xuống bên bánh xe thồ, tay cầm lấy các dụng cụ. Tiếng keng-keng nhanh gọn của tay búa, giờ đây nghe gấp gáp và giận dữ như âm thanh của một khẩu súng máy nhỏ, bật ra vừa lúc giọng nói của người phụ nữ cất lên:
“Chúng tôi có thể hơ tay bên đống lửa trại không?”
Người phụ nữ tiến lại trong tấm áo choàng lông chồn đồ sộ mượt mà. Theo sau chị là một người đàn ông vận áo bành tô xanh dương, vừa đi vừa tháo găng tay lông và rút ra một tẩu thuốc.
“Nhìn hấp dẫn quá”. Người phụ nữ trong tấm áo làm từ nhiều sinh vật chết nở một nụ cười toe toét điệu đàng, nửa do dự, nửa kẻ cả, với người bạn đồng hành.
Không ai nói lời nào.
Chị tiến tới đống lửa, thoáng run rẩy vì lạnh sau lớp áo choàng. Họ vừa lái xe mui trần đến.
Chị là một thiếu phụ nhỏ con với cái mũi hơi to: có lẽ là một người Do Thái. Bé bỏng tựa một đứa trẻ, trong lớp áo lông chồn đó trông chị kềnh càng hơn thực tế, và đôi mắt nâu to hơi uất ức của một phụ nữ Do Thái được nuông chiều chằm chằm ló ra từ lớp phục trang xa hoa của chị.
Chị cuộn mình lại trên đống lửa thấp, xoè rộng đôi bàn tay nhỏ lấp lánh ánh kim cương và lục bảo ngọc.
“Eo!” Chị run bần bật. “Tất nhiên chúng tôi không nên lái xe mui trần lên đây! Nhưng chồng tôi thậm chí còn không cho tôi than rét!” Chị quay đầu nhìn anh bằng cặp mắt quở trách, trẻ con, mang nét sắc sảo khôn lanh của lớp phụ nữ tư sản Do Thái: hẳn chị là người giàu có.
Rõ ràng chị đang yêu người đàn ông tóc vàng to con kia, theo cách yêu khó hiểu của phụ nữ Do Thái. Người đàn ông nhìn lại chị bằng đôi mắt xanh lơ đãng dường như không có lông mi, và một nụ cười khẽ uốn nếp lên gò má lồ lộ mịn của anh. Nụ cười không mang ẩn ý gì cả.
Nhìn anh, người ta tức khắc liên tưởng đến những môn thể thao mùa đông như trượt băng, trượt tuyết. Lực lưỡng và dửng dưng với cuộc đời, anh chậm rãi nhồi thuốc lá vào chiếc tẩu bằng một ngón tay dài đỏ lửng, khoẻ khoắn.
Người phụ nữ Do Thái nhìn anh xem anh có hồi đáp mình không. Chẳng có gì ngoài nụ cười trống không kỳ cục đó. Chị quay lại với đống lửa, hơi nhíu mày nhìn đôi bàn tay nhỏ xoè ra trắng bệch của mình.
Anh tuột chiếc măng tô lót trong nặng nề của mình ra, để lộ một lớp áo len đan có hoạ tiết sắc nét rất đẹp màu vàng, đen và xám, cùng một chiếc quần rộng cắt may rất khéo. Phải, cả hai đều xa xỉ! Thân hình anh tráng kiện, lồng ngực căng vạm vỡ. Anh lặng lẽ vun đống lửa lên, chẳng kém gì dân cắm trại lão luyện, hay một người lính đương trong chiến dịch.
“Theo cô họ có phiền không nếu chúng tôi cho vài quả thông vào để lửa cháy to hơn?” Anh vừa hỏi Yvette vừa im lặng đánh mắt về phía chàng du mục đang quai búa.
“Tôi nghĩ họ sẽ thích là đằng khác.” Yvette trả lời, hơi choáng váng khi bùa chú của chàng du mục dần dần thôi tác động lên nàng, và bắt đầu cảm thấy lạc lõng, trống rỗng.
Người đàn ông quay ra xe rồi trở lại với một bao đựng quả thông. Anh lấy ra một nắm.
“Chúng tôi cho lửa bùng lên được chứ?” Anh gọi chàng du mục.
“Hở?”
“Chúng tôi cho vài quả thông vào để lửa bùng lên được chứ?”
“Cứ làm đi!” Chàng du mục đáp.
Người đàn ông bắt đầu nhẹ nhàng và cẩn trọng rải các quả thông lên đống than hồng. Chẳng mấy chốc, từng quả một bắt lửa, cháy bùng lên như những bông hồng rực lửa và toả ra mùi hương ngào ngạt.
“A dễ thương! Dễ thương!” Người đàn bà Do Thái bé nhỏ xuýt xoa và lại ngước nhìn chàng trai của mình. Anh cúi mắt nhìn chị thân ái, như mặt trời bừng sáng trên băng. “Cô có thích lửa không! Ôi, tôi thích lắm!” Chị xuýt xoa với Yvette trên nền tiếng búa nện.
Tiếng quai búa làm chị khó chịu. Chị quay nhìn chàng du mục, hơi cau cặp mày thanh tú, như thể chị sắp sửa ra lệnh cho anh chàng dừng lại. Yvette cũng nhìn sang. Chàng du mục đang oằn người trên chiếc bát đồng, đôi chân choãi ra, đầu cúi xuống, cánh tay uyển chuyển nâng lên. Giờ đây chàng có vẻ thật xa cách với nàng.
Người đàn ông đi cùng người phụ nữ rảo bước về phía chàng du mục, rồi đứng yên lặng nhìn xuống chàng, miệng vẫn ngậm tẩu thuốc. Hai người đàn ông, như hai con chó đực xa lạ, bắt đầu đánh hơi nhau.
“Chúng tôi đang tận hưởng tuần trăng mật.” Người phụ nữ Do Thái nói, ném một cái nhìn tinh quái về phía Yvette. Âm giọng của chị hơi cao và ngang, như tiếng kêu của một loài chim, giẻ cùi hay mỏ khoằm gì đấy.
“Thật ư?” Yvette nói.
“Thật! Trước khi kết hôn! Cô đã từng nghe nói đến Simon Fawcett chưa?” Đó là tên một kỹ sư giàu có tiếng tăm của miền đất phương bắc. “Ừm, tôi là bà Fawcett, và ông ta đang làm thủ tục ly dị tôi!” Chị nhìn Yvette với vẻ thách thức và bâng khuâng lạ lùng.
“Thật sao!” Yvette nói.
Giờ thì nàng đã hiểu ánh nhìn uất ức và ngang ngạnh trong đôi mắt nâu to thơ trẻ của người phụ nữ Do Thái. Chị là một tạo vật bé bỏng thành thực, nhưng có lẽ lòng thành thực của chị quá thiên về lý trí. Có lẽ điều đó phần nào giải thích được những tai tiếng xoay quanh sự vô đạo đức của Simon Fawcett lừng danh.
“Vâng! Ngay khi thủ tục ly dị xong xuôi, tôi sẽ cưới Thiếu tá Eastwood.”
Chị đã ngửa hết bài ra trên bàn. Chị không muốn đánh lừa ai cả.
Sau lưng chị, hai người đàn ông đang chuyện trò vắn tắt. Chị quay lại nhìn và dán cặp mắt nâu to vào chàng du mục.
Với một vẻ gì đó như là ngượng ngùng, chàng ngẩng nhìn ông bạn to xác trong chiếc áo len lấp lánh với điếu thuốc trên môi đang cúi nhìn chàng.
“Với lũ ngựa ở Arras ngày đó.” Chàng du mục khẽ giọng.
Họ đang nói về chiến tranh. Chàng du mục đã từng phục vụ cùng các binh đội pháo binh trong trung đoàn của ngài thiếu tá kia.
“Ein schöner Mensch !” Thiếu phụ Do Thái bảo. “Một anh chàng bảnh trai, hở?”
Với chị, chàng du mục cũng chỉ là một trong nhiều người đàn ông bình thường khác.
“Rất đẹp trai!” Yvette nói.
“Cô đạp xe tới đây?” Thiếu phụ hỏi bằng giọng ngạc nhiên.
“Vâng! Từ Papplewick lên đây. Cha em là mục sư ở Papplewick: Ông Saywell!”
“Ồ! Tôi biết! Một cây bút tài năng! Rất tài năng! Tôi đã đọc tác phẩm của ông ấy.”
Đám quả thông đã cháy hết, ngọn lửa bây giờ là một đống chất cao những bông hồng lửa đang dần vỡ vụn. Mây mù bắt đầu kéo về khắp trời chiều. Có lẽ đến tối sẽ có tuyết rơi.
Thiếu tá quay lại, choàng áo măng tô vào.
“Tôi còn nhớ mặt anh ta.” Anh nói. “Một trong các mã phu của chúng tôi, chuyên gia nài ngựa hạng A.1.”
“Coi!” Thiếu phụ Do Thái gọi Yvette. “Sao cô không đi xe cùng chúng tôi xuống Normanton. Chúng tôi sống ở Scoresby. Ta có thể cột chiếc xe đạp đằng sau.”
“Vâng, em nghĩ là được.” Yvette đáp.
“Lại đây!” Thiếu phụ gọi đám trẻ đang lấp ló nhìn trộm, trong lúc thiếu tá dắt xe đạp đi. “Lại đây! Lại đây nào!” Chị mở chiếc xắc tay nhỏ, lấy ra một đồng shilling.
“Đến đây! Đến đây mà lấy nào!”
Chàng du mục đã nghỉ tay và đi vào trong caravan. Bà già khàn khàn gọi đám trẻ từ sau lớp vách bao. Hai đứa lớn hơn vụng trộm tiến lại. Thiếu phụ cho chúng hai đồng bạc, một shilling và một florin, mà chị có sẵn trong xắc, và tiếng gọi khan của người đàn bà khuất mặt lại vang lên.
Chàng du mục tụt xuống từ chiếc caravan và rảo bước tới đống lửa. Thiếu phụ Do Thái dò xét gương mặt chàng với vẻ táo tợn trưởng giả của chủng tộc mình.
“Anh đã tham gia chiến tranh, trong trung đoàn của thiếu tá Eastwood.” Chị nói.
“Vâng, thưa bà!”
“Tưởng tượng cả hai người cùng ở đây giờ này!... Tuyết sắp rơi rồi…” Chị ngước mặt lên trời.
“Lát nữa.” Chàng đáp và cũng nhìn lên trời.
Chính chàng cũng đang trở nên cách biệt. Dòng giống chàng đã trải qua hàng năm dài trong cuộc chiến quái lạ chống lại xã hội chính thức, chẳng hề biết thắng lợi là gì. Chỉ thi thoảng họ ghi điểm.
Nhưng từ sau chiến tranh, ngay cả những cơ hội ghi điểm hiếm hoi cũng dần bị dập tắt. Không có chuyện nhượng bộ. Đôi mắt chàng linh mục vẫn mang ánh nhìn táo bạo, nhưng ánh nhìn ấy đã rắn lại và hướng về xa xăm, nét thân tình xấc láo không còn nữa. Chàng đã kinh qua chiến tranh.
Chàng nhìn Yvette.
“Cô sẽ về bằng xe hơi?”
“Vâng!” Nàng đáp với vẻ hơi kiểu cách, màu mè. “Thời tiết bất trắc quá!”
“Thời tiết bất trắc!” Chàng lặp lại và nhìn lên trời.
Nàng không thể đoán được tí gì về cảm xúc của chàng. Sự thật là nàng cũng không hứng thú cho lắm. Giờ thì nàng có phần bị lôi cuốn bởi thiếu phụ Do Thái bé nhỏ, người đã có hai con và đang chuyển dần tài sản của mình từ tay vị kỹ sư lừng danh sang chàng thiếu tá Eastwood dáng vóc thể thao, không xu dính túi, người hẳn phải nhỏ hơn chị năm hay sáu tuổi. Thật là thú vị
Thiếu tá quay lại.
“Cho một điếu xì gà nào, Charles!” Thiếu phụ rầu rĩ kêu lên.
Bằng một cử chỉ chậm rãi mà năng động, anh rút hộp thuốc lá ra. Có gì đó nhạy cảm trong anh khiến anh chậm chạp, cẩn trọng, như thể anh đã từng gây va chạm làm đau người khác. Anh đưa một điếu xì gà cho vợ, một điếu cho Yvette, và giản dị chìa cái hộp ra cho chàng du mục. Chàng rút một điếu.
“Cám ơn ngài!”
Rồi chàng lặng lẽ đi về phía đống lửa, khom lưng cời đám than hồng cho lửa cháy lên. Cả hai người phụ nữ quan sát anh.
“Thôi chào nhé!” Thiếu phụ Do Thái nói với vẻ cảm thông trưởng giả kỳ cục. “Cám ơn đã cho chúng tôi sưởi ấm.”
“Lửa là của chung.” Chàng du mục đáp.
Đứa con nhỏ đi chập chững tới bên chàng.
“Tạm biệt!” Yvette nói. “Mong là tuyết không rơi xuống mọi người.”
“Chúng tôi không ngại gì một chút tuyết.” Chàng du mục đáp.
“Không ư? Tôi tưởng là có chứ!”
“Không!”
Hất tấm khăn quàng qua vai một cách vương giả, nàng đi theo tà áo lông của thiếu phụ Do Thái. Tấm áo như đang tự di chuyển trên những cẳng chân nhỏ nhắn.
More
Less
Experience
Years of experience: 14. Registered at ProZ.com: Nov 2008.